Nấm phổi - bệnh nguy hiểm dễ bị bỏ sót

bannermoi

slide1 slide2 slide3 slide4 slide5 slide6 slide7 slide8 slide9

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tin tức

Thịt lợn nhiễm dịch tả châu Phi nguy hiểm thế nào

  • Mô tả

    Thịt lợn nhiễm dịch tả châu Phi nguy hiểm thế nào

    Thịt lợn nhiễm dịch tả heo châu Phi không chỉ chứa mầm bệnh dịch tả, mà còn có thể bị nhiễm thêm các loại vi khuẩn hoặc bệnh khác.

     

    Ngày 8/7, Công an Hà Nội thông báo đã phát hiện thịt lợn dương tính với dịch tả châu Phi bị giết mổ trái phép và tuồn vào các chợ, quán ăn trên địa bàn. Theo đánh giá, sự việc rất nghiêm trọng, thể hiện sự xem thường pháp luật và sức khỏe cộng đồng của nhóm đối tượng.

     

    Dịch tả heo châu Phi (ASF) là một bệnh truyền nhiễm chỉ xảy ra ở lợn, bao gồm lợn nhà và lợn rừng. Virus gây bệnh (ASFV) có khả năng lây lan cực nhanh và gây tỷ lệ tử vong gần như 100% ở lợn bị nhiễm.

     

    PGS.TS Nguyễn Duy Thịnh, Viện Công nghệ Sinh học và Thực phẩm, Đại học Bách khoa Hà Nội, cho biết virus tả heo châu Phi tồn tại lâu trong môi trường và dễ lây lan qua hô hấp lẫn tiêu hóa giữa các con lợn. Người tiếp xúc với chuồng trại, xe vận chuyển hoặc thực phẩm từ lợn bệnh có thể phát tán virus.

     

    Người nuôi thường khó phát hiện lợn nhiễm bệnh sớm, dễ khiến dịch lây sang cả đàn. Lợn mắc tả còn dễ nhiễm thêm các bệnh khác như tai xanh, cúm, thương hàn... Dù đã nấu chín, độc tố vẫn còn lại trong thịt. Khi ăn phải, người dùng có thể bị tiêu chảy, nôn, thậm chí sốc nhiễm trùng máu, có thể tử vong.

     

    Mặt khác, thịt lợn ốm, chết có thể bị nhiễm các loại vi khuẩn, ký sinh trùng khác (như giun sán, khuẩn Salmonella, E.coli) gây ngộ độc hoặc các bệnh tiêu hóa nguy hiểm cho người.

    Tương tự, bác sĩ Lê Văn Thiệu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, cho biết nhiều loại virus ở lợn không lây trực tiếp qua đường tiêu hóa nhưng có thể lây gián tiếp qua tay hoặc dụng cụ chế biến không sạch.

     

    Độc tố như histamine, endotoxin, mycotoxin vẫn tồn tại dù nấu ở 100°C. Khi ăn phải, dễ bị ngộ độc cấp với dấu hiệu nôn dữ dội, đau bụng, tiêu chảy, sốt cao, tụt huyết áp. Trường hợp nặng có thể dẫn tới sốc và tử vong.

     

    Tiếp xúc lâu dài với lượng nhỏ độc tố sẽ gây tổn thương gan, thận, hệ miễn dịch và làm tăng nguy cơ ung thư. Thịt chứa chất độc thường không thay đổi màu sắc hoặc mùi vị, làm người dùng mất cảnh giác.

    Cách nhận biết thịt lợn tươi ngon

     

    Theo ông Thịnh, nhận biết thịt lợn thật sự sạch phải xem xét toàn bộ chuỗi cung ứng. Nếu khâu nào bị bỏ qua, nguy cơ nhiễm bệnh rất cao.

     

    Người mua nên kiểm tra độ đàn hồi: ấn ngón tay vào thịt rồi buông ra, nếu đàn hồi nhanh, màu đỏ hồng là thịt tươi. Thớ thịt nhão, da dày là lợn nái, lớp mỡ vàng là lợn bệnh. Nếu thịt bị bơm nước hoặc có chất tạo nạc, bề mặt không đàn hồi, miếng cắt dễ mềm nhũn, có nước chảy ra.

     

    Thịt tươi thường chắc, khi thái không chảy nước. Màu sắc thịt phải hồng tươi hoặc đỏ nhạt, phần mỡ sáng màu, thớ thịt mềm mại. Thịt ôi có màu xỉn, khi sờ thấy nhớt, tủy tách rời khỏi ống xương, màu nâu hoặc xám, có thể có đốm đỏ trên da.

     

    Thịt mới có mùi đặc trưng, không tanh, không hôi. Lớp bì dày từ 1,5-2 cm, các thớ nạc gắn chặt nhau. Thịt hỏng thường bị tẩm hàn the, muối diêm, tạo cảm giác tươi giả tạo nhưng bên trong lại nhũn, chảy dịch, có mùi, độ đàn hồi kém.

     

    Khi mua, người tiêu dùng nên quan sát kỹ màu sắc, mùi vị, độ đàn hồi của thịt để nhận biết và chọn thực phẩm an toàn.

     

    Cách nhận biết thịt lợn tươi ngon

     

    Theo ông Thịnh, nhận biết thịt lợn thật sự sạch phải xem xét toàn bộ chuỗi cung ứng. Nếu khâu nào bị bỏ qua, nguy cơ nhiễm bệnh rất cao.

     

    Người mua nên kiểm tra độ đàn hồi: ấn ngón tay vào thịt rồi buông ra, nếu đàn hồi nhanh, màu đỏ hồng là thịt tươi. Thớ thịt nhão, da dày là lợn nái, lớp mỡ vàng là lợn bệnh. Nếu thịt bị bơm nước hoặc có chất tạo nạc, bề mặt không đàn hồi, miếng cắt dễ mềm nhũn, có nước chảy ra.

     

    Thịt tươi thường chắc, khi thái không chảy nước. Màu sắc thịt phải hồng tươi hoặc đỏ nhạt, phần mỡ sáng màu, thớ thịt mềm mại. Thịt ôi có màu xỉn, khi sờ thấy nhớt, tủy tách rời khỏi ống xương, màu nâu hoặc xám, có thể có đốm đỏ trên da.

     

    Thịt mới có mùi đặc trưng, không tanh, không hôi. Lớp bì dày từ 1,5-2 cm, các thớ nạc gắn chặt nhau. Thịt hỏng thường bị tẩm hàn the, muối diêm, tạo cảm giác tươi giả tạo nhưng bên trong lại nhũn, chảy dịch, có mùi, độ đàn hồi kém.

     

    Khi mua, người tiêu dùng nên quan sát kỹ màu sắc, mùi vị, độ đàn hồi của thịt để nhận biết và chọn thực phẩm an toàn.

     

  • Hỗ trợ

    Hotline: Mr Hải: 0363857742 

    Thống kê truy cập

    Nấm phổi - bệnh nguy hiểm dễ bị bỏ sót

    Nấm phổi - bệnh nguy hiểm dễ bị bỏ sót
    Hầu hết bệnh nhân nấm phổi ho ra máu không rõ lý do, sốt kéo dài kèm đau ngực, khó thở dễ bị nhầm lẫn với bệnh khác.

    Thông tin được bác sĩ Nguyễn Thị Bích Ngọc, Bệnh viện Phổi Trung ương, cho biết tại hội thảo khoa học Ngày Nấm toàn cầu 2025, hôm 28/2. Đây là dịp nâng cao nhận thức của nhân viên y tế cũng như cộng đồng về căn bệnh này, đồng thời giúp các bác sĩ cập nhật kiến thức về chẩn đoán và điều trị nấm phổi.

    Theo Tổ chức hành động toàn cầu về nhiễm nấm (GAFFI), nấm là kẻ giết người thầm lặng, là nguyên nhân gây ra cái chết của hơn 4 triệu người mỗi năm - điều này khiến bệnh nấm trở thành một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn cầu, trước cả bệnh lao và sốt rét. Trên toàn cầu, mỗi năm ước tính có hơn 300 triệu người ở mọi lứa tuổi bị nhiễm trùng nấm nghiêm trọng, là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 5 trên thế giới.

    "Trong đó, nấm phổi là căn bệnh đã biết đến từ rất lâu tuy nhiên vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức về căn bệnh này", bác sĩ Ngọc nói, thêm rằng Việt Nam hiện chưa có số liệu cụ thể về bệnh nấm phổi xâm lấn do Aspergillus. Tuy nhiên, khoảng 50% bệnh nhân đã từng mắc lao, đến khám lại tại các cơ sở chuyên khoa hô hấp mắc nấm phổi do Aspergillus.

    Nấm phổi là một bệnh nhiễm trùng phổi, ít gặp ở người bình thường có sức đề kháng tốt. Bệnh hay gặp ở người suy giảm miễn dịch, già yếu, mắc bệnh mạn tính lâu ngày. Tỷ lệ bệnh nấm phổi chỉ chiếm 0,02% các bệnh phổi, tuy nhiên khi bị nấm phổi không phát hiện điều trị kịp thời, khả năng tử vong rất cao.

    Nguyên nhân gây bệnh nấm phổi là do các loại nấm: Candida, Aspergillus, Cryptococcus. Trong đó, hay gặp nhất là loại Aspergillus. Hầu hết bệnh nhân thường đến khám vì ho ra máu kéo dài không rõ lý do, sốt kéo dài kèm đau ngực, ho khạc đờm kéo dài kèm khó thở như hen. Cùng với đó là các trường hợp chẩn đoán viêm phổi điều trị kháng sinh kéo dài không khỏi.
    TS Đinh Văn Lượng, Giám đốc Bệnh viện Phổi trung ương, cho hay việc chẩn đoán nhiễm nấm hiện nay còn gặp nhiều khó khăn về vấn đề nghi ngờ lâm sàng và các xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán bệnh. Do vậy, bệnh dễ bị bỏ sót hoặc chẩn đoán nhầm. Nếu không được chẩn đoán và điều trị, phần phổi bị phá hủy sẽ ngày một lớn, dẫn đến mất chức năng phổi. Trên thế giới, tỷ lệ sống của bệnh nhân sau một năm, 5 năm, 10 năm tương ứng là 86%, 62%, 47%.

    Bệnh nấm Aspergillus có thể điều trị được bằng các thuốc kháng nấm. Trường hợp chẩn đoán và điều trị muộn cần phải phẫu thuật, nút mạch cầm máu song song với điều trị thuốc nấm kéo dài. Những trường hợp này, nguy cơ tử vong cao hơn.

    Hiện, Bệnh viện Phổi Trung ương, Chương trình Chống lao Quốc gia đã xây dựng hướng dẫn chẩn đoán điều trị nấm Aspergillus phổi mạn tính nhằm, được Bộ Y tế phê duyệt nhằm hỗ trợ công tác chẩn đoán và điều trị bằng một mạng lưới chuyên khoa từ trung ương đến tuyến cơ sở. Hướng dẫn này đang được phổ biến đến các cơ sở trên cả nước.

    Theo các chuyên gia y tế, để phòng bệnh nấm phổi, cần thường xuyên rèn luyện thân thể, ăn nhiều hoa quả tươi, nâng cao sức đề kháng. Tránh để nấm mốc trong nhà, đồ đạc sắp xếp gọn gàng, đủ ánh nắng, thông gió tránh ẩm ướt. Khi vệ sinh nhà cửa cần mang khẩu trang để tránh hít phải bụi nấm.

    Bản đồ