Cứ 3 phụ nữ Việt mắc ung thư, có một bị ung thư vú
Ung thư vú chiếm gần 29% tổng số ca bệnh ung thư ở nữ giới Việt Nam, tức cứ ba phụ nữ được chẩn đoán thì có một người mắc bệnh này, theo Tổ chức Ung thư toàn cầu (GLOBOCAN).
"Ngày càng nhiều bệnh nhân ung thư vú được phát hiện ở giai đoạn sớm, độ tuổi mắc cũng có xu hướng trẻ hơn", PGS.TS.BS Huỳnh Quang Khánh, Trưởng Khoa Tuyến vú, Trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Chợ Rẫy, nói tại hội nghị khoa học của bệnh viện ngày 2/10.
Ung thư vú hiện đã vượt ung thư gan, trở thành loại ung thư có số ca mắc mới nhiều nhất tại Việt Nam với gần 25.000 trường hợp mỗi năm. Trước đây, bệnh chỉ đứng đầu ở nữ giới, còn nếu tính cả hai giới thường xếp sau ung thư gan hoặc phổi. Tại Chợ Rẫy, Khoa Tuyến vú được thành lập năm 2018, đến nay đã tiếp nhận khoảng 50.000 lượt khám và thực hiện gần 6.000 ca phẫu thuật.
Ung thư vú là bệnh lý có phương tiện tầm soát hiệu quả giúp phát hiện sớm. Tỷ lệ sống sau 5 năm ở giai đoạn rất sớm đạt tới 98%, trong khi ở giai đoạn muộn chỉ còn hơn 10%. Nếu được chẩn đoán sớm, khả năng chữa khỏi có thể lên tới 90-95%.
"Phát hiện bệnh sớm giúp bệnh nhân chỉ cần phẫu thuật bảo tồn kết hợp xạ trị khu trú. Ngược lại, nếu phát hiện muộn, bệnh nhân thường phải hóa trị, xạ trị toàn thân và cắt bỏ toàn bộ tuyến vú, gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và tinh thần", bác sĩ Khánh cho hay, thêm rằng điều trị sớm cũng đơn giản, ít tốn kém hơn, đồng thời giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình, xã hội.
Việc chẩn đoán ung thư vú dựa trên sự kết hợp giữa khám lâm sàng, các phương tiện hình ảnh và sinh thiết. Khám lâm sàng giúp phát hiện tổn thương, so sánh kích thước, hình dạng hai bên vú và kiểm tra dịch tiết núm vú. Các kỹ thuật như siêu âm, nhũ ảnh và cộng hưởng từ (MRI) hỗ trợ phát hiện các bất thường sớm hơn. Sinh thiết vú dưới hướng dẫn hình ảnh là tiêu chuẩn vàng, đóng vai trò quyết định trong việc xác định tổn thương là lành tính hay ác tính.
Điều trị ung thư vú hiện nay là điều trị đa mô thức, gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị và các liệu pháp toàn thân khác. Trong đó, phẫu thuật vẫn là phương pháp chủ lực. Xu hướng chung trên thế giới là bảo tồn vú, chiếm khoảng 70% số ca mổ. Hóa trị tân hỗ trợ (trước phẫu thuật) giúp thu nhỏ khối u, tăng khả năng bảo tồn vú và giảm mức độ can thiệp ở nách.
Bệnh viện Chợ Rẫy đã triển khai nhiều kỹ thuật tiên tiến như phẫu thuật nội soi 2D, đang hướng đến mổ robot và mổ 3D. Đơn vị cũng đẩy mạnh phẫu thuật tái tạo vú bằng túi độn hoặc vạt tự thân nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, đặc biệt cho phụ nữ trẻ phát hiện bệnh sớm. Ngoài ra, các kỹ thuật hiện đại như sinh thiết hạch lính gác, nạo hạch trúng đích hay tái tạo bạch huyết ngay sau mổ giúp giảm biến chứng phù tay. Những tiến bộ này không chỉ nâng cao hiệu quả điều trị mà còn cải thiện đáng kể chất lượng sống và tâm lý của người bệnh.
Bác sĩ khuyến cáo khám tuyến vú định kỳ có vai trò then chốt trong phát hiện sớm những bất thường, ngay cả khi chưa có triệu chứng hay chưa sờ thấy u. Điều này đặc biệt quan trọng với phụ nữ sau 40 tuổi, người có tiền sử gia đình mắc ung thư vú hoặc từng có bệnh lý tuyến vú.
Phụ nữ nên tự khám vú mỗi tháng (sau kỳ kinh 5-7 ngày), khám lâm sàng tại cơ sở y tế định kỳ và chụp nhũ ảnh khi đến tuổi phù hợp. Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, nhóm không nguy cơ cao từ 20-40 tuổi chỉ cần tự khám hàng tháng, khám lâm sàng mỗi 1-3 năm. Từ 40 tuổi trở lên nên tự khám hàng tháng, khám lâm sàng và chụp nhũ ảnh mỗi năm. Với nhóm nguy cơ cao, việc sàng lọc bắt đầu từ 25 tuổi; dưới 25 tuổi cần tự khám hàng tháng, khám lâm sàng 6-12 tháng một lần và chụp nhũ ảnh một năm một lần.