AI - cánh tay đắc lực của bác sĩ

bannermoi

slide1 slide2 slide3 slide4 slide5 slide6 slide7 slide8 slide9

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

AI - cánh tay đắc lực của bác sĩ

AI - cánh tay đắc lực của bác sĩ

AI không thay thế bác sĩ mà là cánh tay đắc lực giúp giải phóng những đầu việc lặp lại và khuếch đại năng lực của con người.

PGS.TS Trần Ngọc Đăng, Phó phòng Khoa học Công nghệ, Đại học Y Dược TP HCM, chia sẻ tại hội thảo Tư duy linh hoạt và phát triển chuyên ngành trong kỷ nguyên AI & VUCA chiều 10/11, rằng từ dự báo dịch bệnh, hỗ trợ chẩn đoán đến cá thể hóa điều trị, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) đang từng bước định hình lại cách vận hành của ngành y tế.

Với các kỹ thuật hình ảnh, từ X-quang, CT đến MRI, AI có thể phóng đại từng điểm bất thường nhỏ đến mức mắt người dễ lướt qua. Trong giải phẫu bệnh, AI như một "trợ lý không biết mệt", giúp khuếch đại năng lực của con người, sàng lọc hàng trăm tiêu bản chỉ trong vài phút, đẩy những mẫu đáng ngờ lên trước để bác sĩ tập trung xử lý, khâu chẩn đoán vì thế sẽ nhanh hơn.

Ở khâu hành chính, AI có thể đảm nhận khâu nhập liệu, xử lý hồ sơ, tổng hợp báo cáo..., những công việc chiếm hàng giờ mỗi ngày nhưng ít tạo ra giá trị chuyên môn. Ông Đăng dẫn khảo sát tại TP HCM cho thấy 41% nhân viên y tế đang có dấu hiệu kiệt sức, riêng nhóm gánh khối lượng việc lớn, nguy cơ này tăng tới gấp ba lần. Nếu AI "giải phóng" bớt những đầu việc lặp lại, bác sĩ có thể dành thời gian cho bệnh nhân, cho chuyên môn.
GS.TS Jonathan Van Tam, nguyên Cố vấn Y tế Chính phủ Anh, nhận định rằng ở một số chuyên ngành, AI đang mở rộng năng lực của y học theo cách mà con người khó đạt được nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm cá nhân.

Ông dẫn chứng trong lĩnh vực da liễu, một bác sĩ dày dạn kinh nghiệm có thể dựa trên vài nghìn ca bệnh từng gặp để đánh giá một nốt nghi ngờ. Trong khi đó, AI có thể so sánh hình ảnh đó với hàng triệu ca đã được xác nhận bằng giải phẫu bệnh, từ đó hỗ trợ nhận diện sớm và chính xác hơn những dấu hiệu bất thường.

"AI sẽ là chất xúc tác đưa y học bước vào giai đoạn cá thể hóa sâu sắc", GS Van Tam nói. Vaccine, vốn được xem là "lá chắn" chống bệnh truyền nhiễm, đang bước sang một chương mới nhờ công nghệ mRNA. Ông dự báo trong 5-10 năm tới với sự trợ giúp của AI, mRNA có thể để lại dấu ấn đậm nét hơn ở lĩnh vực điều trị ung thư.
Ở một số loại ung thư, sau phẫu thuật và các phương pháp như hóa trị, xạ trị hay liệu pháp miễn dịch, bệnh nhân được kỳ vọng có thể được tiêm một loại vaccine "may đo riêng" dựa trên mô bệnh học và dấu ấn khối u của chính họ.

Ở góc độ y tế dự phòng, PGS Đăng cho biết một số mô hình phân tích dữ liệu bằng AI có thể hỗ trợ xây dựng các kịch bản về nguy cơ bùng phát dịch trong tương lai. "Từ các dữ liệu nhập vào, AI đã dự báo chính xác các đại dịch xảy ra vào năm 2009, 2020", PGS Đăng nói, thêm rằng có mô hình đưa ra giả thuyết về khả năng xuất hiện một đợt dịch vào khoảng năm 2027, trong giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 5.

TS.BS Trần Công Thắng, Phó Hiệu trưởng Trường Y, Trường Đại học Y Dược TP HCM cho rằng trên lâm sàng, AI giúp tổng kết tài liệu để đưa ra các mức độ bằng chứng phù hợp, hỗ trợ cho việc ra quyết định dựa trên y học bằng chứng. Còn trong giảng dạy, đặc biệt sau đại học, AI có thể xây dựng chương trình học cá nhân hóa cho học viên, dựa trên khung chương trình chung.

Bác sĩ Phạm Thị Mỹ Liên, Giám đốc công ty GSK Việt Nam chia sẻ bản thân sử dụng AI trong khoảng 50% công việc, bao gồm soạn bài thuyết trình cô đọng, hỗ trợ ngôn ngữ, sử dụng trợ lý ảo để ghi chép biên bản cuộc họp, và ứng dụng trong hoạt động của nhân viên công ty (kể cả trình dược viên).

Bà nhận định việc ứng dụng công nghệ AI mang đến nhiều cơ hội cho ngành y tế Việt Nam. Trong đó, AI tạo cơ hội học tập và hội nhập, là trợ thủ đắc lực giúp công việc thông minh, tiết kiệm thời gian hơn. Điều này tạo ra những nghề nghiệp mới, hình thành hệ sinh thái gồm: bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, kỹ sư công nghệ, nhà quản lý dữ liệu, và chuyên gia đạo đức.

Thông qua AI, mỗi sinh viên, giảng viên và nhân viên y tế có cơ hội tiếp cận cơ sở dữ liệu lớn, chất lượng cao toàn quốc và quốc tế, rất quan trọng cho y học bằng chứng và nghiên cứu lâm sàng. Từ đó thu hút đầu tư và các chương trình quốc tế, mở ra cơ hội trao đổi tài năng và vượt ra tầm quốc tế.
Song, các chuyên gia nhìn nhận rằng cùng với cơ hội, sự bùng nổ của AI cũng đặt ra nhiều thách thức mới cho đào tạo và thực hành y khoa. Một trong những lo ngại được nêu ra là nếu không ứng xử đúng cách, AI có thể khiến người học lệ thuộc vào công cụ, trong khi nền tảng kiến thức cốt lõi lại không được củng cố.

Một ví dụ được nêu ra là tình trạng sinh viên sử dụng AI để xây dựng bài thuyết trình với hình thức hấp dẫn, nội dung mạch lạc. Tuy nhiên, khi được hỏi sâu về bản chất vấn đề, chẳng hạn cơ chế dẫn truyền thần kinh, một số sinh viên lại chưa thật sự nắm rõ.

Các chuyên gia nhấn mạnh, việc chấp nhận sản phẩm được AI hỗ trợ nhưng không hiểu bản chất sẽ tạo ra khoảng trống nguy hiểm trong đào tạo bác sĩ. Công nghệ có thể hỗ trợ, nhưng không thể thay thế tư duy lâm sàng. Thách thức của thế hệ trẻ là sử dụng AI đúng cách để gia tăng hiệu quả, không đánh đổi sự chắc chắn trong kiến thức, chẩn đoán và điều trị.

Từ góc nhìn quốc tế, GS Van Tam nhắc lại một băn khoăn phổ biến của giới y khoa khi AI bước vào bệnh viện: Bệnh nhân liệu có sẵn sàng "trút bầu tâm sự" với một cỗ máy, thay vì nhìn vào mắt một bác sĩ thật?. Ông cho rằng cảm giác e dè ấy là dễ hiểu, song AI không sinh ra để thay thế bác sĩ, mà để tăng sức mạnh cho bác sĩ và chuẩn hóa chất lượng chăm sóc.

Để đảm bảo đạo đức và chất lượng khi sử dụng AI trong y tế, bác sĩ Liên khuyến cáo cần có sự tuân thủ, xây dựng chính sách để bảo vệ quyền riêng tư và dữ liệu của bệnh nhân. Ngoài ra, cần có đơn vị độc lập để bảo chứng, đảm bảo công cụ hoặc ứng dụng đáp ứng tiêu chuẩn nhất định (tiêu chuẩn cơ sở, quốc gia).

PGS.TS Phùng Nguyễn Thế Nguyên, Hiệu trưởng Trường Y, Đại học Y Dược TP HCM, cho biết nhà trường đã ban hành nguyên tắc sử dụng AI, đổi mới chương trình, đào tạo liên ngành và khuyến khích làm việc nhóm. Mục tiêu chiến lược 5 năm tới: Nghiên cứu ứng dụng AI về mặt học thuật và ứng dụng số là một trong năm mục tiêu lớn. Khi viết bài báo cáo, sinh viên được phép sử dụng AI nhưng phải tuyên bố rõ ràng mục đích sử dụng.

PGS Đăng cho rằng các trường đại học không chỉ đào tạo người sử dụng cuối (end user) mà còn cần đào tạo về thẩm định, sáng tạo và quản trị AI, để có thể sử dụng công nghệ này có đạo đức và hiệu quả.

"In a world of AI, be a human - Hãy là một con người trong thế giới của AI", PGS Đăng nhấn mạnh.

Bản đồ